Thứ Hai, 24 tháng 4, 2017

Ngành gốm Việt Nam hiện tại

Một trong những nước phương Đông có nguồn gốc văn hoá truy tìm hàng ngàn năm, Việt Nam đã được thế giới công nhận về sự tuyệt vời, đa dạng về thủ công và kỹ năng của các nghệ nhân gốm. Hàng ngàn năm tuổi, ngành gốm sứ ở Việt Nam, thay vì biến mất, vẫn sống động, song song với cuộc sống con người. Không phải ngẫu nhiên danh hiệu những ngôi làng gốm nổi tiếng luôn có mặt trong các bài hát dân gian và thể hiện giá trị của người Việt Nam.

 Với những bàn tay tài hoa và sự sáng tạo của những người thợ thủ công, đất không còn sống sẽ biến thành vô số hình dáng và hoa văn kết hợp mỏng và đơn giản và phức tạp để mang lại cả những sản phẩm hấp dẫn và thiết thực và kết hợp cả hai. Nấu đất và lửa, gốm tượng trưng cho tinh thần của Việt Nam: sự pha trộn độc đáo của truyền thống và sự sáng tạo, sự khôn ngoan và niềm đam mê.
 Ngành gốm sứ của Việt Nam, với lịch sử phát triển lâu dài, đang có những đóng góp kinh tế quan trọng. Các doanh nghiệp Việt Nam trong ngành đánh dấu năm 2012 là một trong những nỗ lực to lớn. Ngành xuất khẩu 90% sản phẩm của mình mặc dù các thị trường xuất khẩu chủ chốt còn sót lại, với doanh thu xuất khẩu của quốc gia đạt 1,6 tỷ đô la Mỹ vào năm 2012, tăng 10% so với năm 2011.
Hoa văn đặc sắc
 Việt Nam đang nổi lên như một nền kinh tế năng động và đang phát triển nhanh trên toàn thế giới. Thủ công mỹ nghệ - bao gồm gốm sứ, mây tre, tre, lụa và thảm - là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu.
 Năm 2012, gốm sứ được xếp hạng đầu tiên về thủ công mỹ nghệ về doanh thu xuất khẩu, đạt 431 triệu USD, tăng 12% so với năm trước. Không chỉ năm 2012 là gốm sứ nổi bật của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, nó có truyền thống lâu đời là xuất khẩu và nhà máy của ngành này, chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công của Việt Nam. Gốm sứ vẫn là xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam vào năm 2013.


Thách thức
Hầu hết các nhà sản xuất gốm sứ Việt Nam đang phải đối mặt với những hạn chế về công nghệ sản xuất và xúc tiến thương mại.
Phần lớn các nhà cung cấp là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có khả năng hạn chế xuất khẩu trực tiếp. Vì vậy, một số trong số họ bán sản phẩm của mình cho các công ty kinh doanh ở các thành phố lớn như Hà Nội và Hồ Chí Minh.
Bình đựng hoa
Họ cũng phải đối mặt với chi phí sản xuất tăng cao của nguyên liệu và vận chuyển nhập khẩu, đẩy họ tăng giá hoặc làm giảm biên lợi nhuận. Một số nhà cung cấp vẫn phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, đặc biệt là từ Trung Quốc, ngăn họ bán ở mức giá cạnh tranh.
Mặc dù gốm Việt Nam có thiết kế độc đáo và thẩm mỹ cao, nhưng chủ yếu là làm bằng tay trong một thiết bị do thiếu công nghệ hiện đại. Các nhà cung cấp gặp khó khăn trong việc xử lý các đơn hàng lớn.

Một số nhà sản xuất gặp tình trạng thiếu lao động có tay nghề cao

Thứ Hai, 17 tháng 4, 2017

Những điều bạn chưa biết về làng gốm Bát Tràng

Vị trí: Nằm bên bờ tả ngạn sông Hồng, làng gốm Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, cách trung tâm thủ đô Hà Nội hơn 10km về phía đông – nam.
Ðặc điểm: Làng gốm Bát Tràng đã tồn tại ở ven đô Thăng Long với tư cách một làng nghề khoảng hơn 500 năm nay.
Tên Bát Tràng được hình thành từ thời Lê, đó là sự hội nhập giữa 5 dòng họ gốm nổi tiếng của làng Bồ Bát xứ Thanh với dòng họ Nguyễn ở đất Minh Tràng. Năm dòng họ lớn gồm các họ Trần, Vương, Nguyễn, Lê, Phạm đã nhóm họp và quyết định đưa một số nghệ nhân, thợ gốm và gia đình con cháu dời làng di cư về phía kinh thành Thăng Long tìm đất lập nghiệp. Họ dừng chân tại vùng 72 gò đất trắng làng Minh Tràng.
Ảnh 1. Gốm Bát Tràng đã nổi tiếng về độ tinh xảo kỹ thuật làm gốm

Gốm Bát Tràng từ xưa đến nay đã lưu hành trên khắp mọi miền đất nước, thậm chí ra cả nước ngoài. Sản phẩm gốm Bát Tràng như lọ độc bình, song bình, bát vẽ chuồn, bát vẽ các tích cổ...đã được các lái thương Bồ Ðào Nha, Nhật Bản, Hà Lan, Pháp... mua với số lượng lớn. Nhiều nghệ nhân Nhật Bản đã bắt chước phong cách tạo hình, nét vẽ phóng khoáng, màu men đa dạng, giản dị, mộc mạc mà sâu lắng của gốm Bát Tràng.
Từ những thế kỷ trước, đồ gốm Bát Tràng đã thuộc loại cao cấp, quý hiếm nhưng phần nhiều là đồ thờ: chân đèn, lư hương, bình hoa. Về sau, do thị hiếu phát triển, cộng với nhu cầu thị trường, gốm Bát Tràng đã có nhiều đồ gia dụng, phổ biến nhất là bát, đĩa, bình, lọ. Ngày nay, cái khéo cái tài của người làng gốm Bát Tràng được phát huy cao độ trong cơ chế thị trường. Nhiều mặt hàng phong phú về chủng loại và kiểu dáng đã được sản xuất. Các loại gốm mỹ thuật, gốm sứ công nghiệp, đồ giả cổ, gốm xây dựng cao cấp đã dần được sản xuất nhiều hơn đồ gốm gia dụng. Bây giờ những mặt hàng truyền thống xưa chỉ được làm khi có khách đặt để trùng tu phục chế di tích cổ. Đứng trước những mặt hàng mỹ nghệ gốm.
Trong những năm gần đây, làng đã chào đón hơn 10.000 du khách quốc tế và hơn 50.000 du khách Việt Nam mỗi năm.Tuy nhiên, nghệ nhân làng nghề truyền thống đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường cho sản phẩm của mình, đặc biệt là thị trường nước ngoài. Theo ông Hà Văn Lâm, đại diện làng nghề Bát Tràng, khoảng 80-85% sản phẩm địa phương đã được xuất khẩu sang thị trường nước ngoài trong giai đoạn 1990-2000 nhưng con số này đã giảm đáng kể sau năm 2005. Tình hình là do suy thoái kinh tế, đổi mới chậm trong việc cải thiện mô hình sản phẩm, cạnh tranh gay gắt trên thị trường và các hoạt động không chuyên nghiệp của các hộ gia đình và doanh nghiệp địa phương. 

Ảnh 2. Một góc của chợ Bát Tràng bày bán đủ loại các mặt hàng gốm

Trong bối cảnh đó, chính quyền địa phương và người dân địa phương đã cố gắng hết sức để khôi phục làng nghề lâu năm. Các nghệ nhân địa phương nổi tiếng tạo ra các sản phẩm gốm mang dấu cá nhân của họ, hấp dẫn với số lượng lớn khách hàng. Các nhà sản xuất đồ gốm địa phương đang tập trung mở rộng thị trường nội địa trong khi tìm kiếm đối tác nước ngoài. Ngoài ra, họ cũng chú ý đến việc áp dụng các công nghệ sản xuất mới, đổi mới mô hình và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng.

Theo thống kê của xã Bát Tràng, doanh thu hàng năm của địa phương từ ngành gốm sứ đạt gần 400 tỷ đồng (18,34 triệu USD), góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Để thúc đẩy sự phát triển của làng nghề, cần có một hướng cụ thể và sự hỗ trợ của chính quyền địa phương và các cơ quan liên quan.